GIA ĐÌNH THÁNH TÂM

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Ngày xuân tìm hiểu chữ Tết của người Việt


Ngày xuân tìm hiểu chữ Tết của người Việt

Chữ “節-Tết” Cổ xưa nhất là chữ Tượng hình, là vẽ hình dùng dụng cụ nông nghiệp để “Tết”/Tách “Búp Măng” của Trúc/Tre ra mà trồng. Chữ “Tết” cổ đại là hình vẽ “bộ Trúc” phía trên và “măng tre” bên dưới-bên phải là dụng cụ nhà nông để Tách-Tết cây mà trồng…
天增歲月人增壽
春滿乾坤福滿門
Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn phúc mãn môn
Ý Việt: 
Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ
Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà” 
Sự khai bút của những câu đối trên là một dạng sáng tạo văn hoá và đã trở thành phương tiện biểu đạt cho thời điểm hội tụ của người con Việt trong ngày Tết. Tuy có tính cách tượng trưng không liên quan đến các điển tích, nhưng nó đã diễn đạt được mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong bối cảnh mới, không gian mới, bằng những sự mong mỏi đón nhận được mọi sự tốt lành đến cho mình cũng như cho người.
 Xứ Việt ta có nhiều ngày Tết nhưng ít ai để ý về ý nghĩa của nó bằng cách tự hỏi Tết là gì? Và tại sao có những loại Tết khác nhau như: Tết ta, Tết nguyên đán, Tết đoan ngọ, Tết trung thu, Tết dương lịch, Tết âm lịch, Tết Cả, Tết cổ truyền… 
Theo sử liệu cũ của Việt Nam, từ nguyên nguyên nghĩa của từ “Tết” chính là “Tiết”. Bởi vì theo lịch nông nghiệp Á Đông, người ta đã phân chia thời gian trong một năm ra thành 24 tiết khác nhau theo nhu cầu của các mùa vụ để phát triển nghề trồng trọt. Từ đó Tiết được xem là sự khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng. 
Đây là 24 tiết khí (節氣): Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn. 
Trong số tài liệu của Hán tự có nhiều cách giải thích khác nhau về chữ Tết, thí dụ như: Tết được biến âm từ Tiết và Tiết chữ Hán viết là 節. Dạng chữ ban đầu là “卩”. Hình chữ trong Giáp Cốt văn giống một người đang quỳ ngồi, thò đầu gối ra ngoài. Rồi sau đó chữ này được dùng chỉ cho vật làm chứng hay phù hiệu. Dần dà người ta thêm bộ trúc “竹” thành nghĩa “đốt tre, mấu tre”, hay sự tiếp nối của 2 giống cây, hai khúc, hai đoạn cây, và từ nghĩa này, nó được mở rộng để chỉ thời điểm tiếp xúc giữa hai khoảng thời gian phân chia theo thiên văn – khí tượng trong năm. Nhưng nghĩa rộng của chữ Tiết thường được biết như: Điều hòa, khống chế, khí tiết, lễ tiết, mùa, ngày lễ, cúng lễ, vui mừng… 
Chữ “節-Tết” Cổ xưa nhất là chữ Tượng hình, là vẽ hình dùng dụng cụ nông nghiệp để “Tết”/Tách “Búp Măng” của Trúc/Tre ra để mà trồng. 
Chữ “Tết” cổ đại là hình vẽ “bộ Trúc” phía trên và “măng tre” bên dưới-bên phải là dụng cụ nhà nông để Tách-Tết cây mà trồng.
Tết là ngày lễ đầu năm, ngày rất quan trọng đối với người Việt. Do đó ngày Tết có nhiều nghi thức tổ chức khác nhau được biết như khai bút, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ… Tết là dịp để cho con cháu từ xa trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong sự hoà thuận, yêu thương và luôn cầu chúc cho nhau bằng những điều tốt lành.
Năm cũ đã qua đi, năm mới cũng gần đến, Tết Việt sắp về. Từ gia đình cho đến xã hội. Nhân dịp này nếu mọi ngườicùng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính già thương trẻ, chia sẽ với những người nghèo khổ… thì Xứ Việt sẽ luôn tươi đẹp, giàu mạnh, trong tinh thần dân tộc qua cái nhìn mới chứa đầy hy vọng tốt lành cho tất cả mọi người.
TS. Huệ Dân
Nguồn: xuviet.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét