Chúa Nhật
18/03/2012. CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY
Tin thì sống
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian
nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Lời Chúa: Ga 3, 14-21
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như
Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên
như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống
đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗiđã ban Con Một mình, để tất cả
những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên
Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian
nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai
không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và
đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự
sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự
sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách;
nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được
sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa". Đó là lời Chúa
SUY NIỆM 1: Tin thì sống
Giữa đêm thanh gió mát, ông Nicôđêmô, một thủ
lãnh của người Do thái, đến gặp Đức Giêsu. Người đàm đạo với ông về sự sống
muôn đời. Sự sống muôn đời là sự sống trong nước Thiên Chúa. Ai tin vào Con
Người, Đấng từ trời xuống, thì được sống muôn đời. Tin vào Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống. Tin vào Con Một
đến cứu độ thế gian. Tin vào Con Một là ánh sáng thế gian để thiên hạ thấy rõ
những chuyện trên trời mà sống theo sự thật để mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên
Chúa. Như vậy, họ sẽ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn thuở.
Đức Giêsu dẫn chứng lịch sử thời Môisen đã treo
con rắn đồng lên cây cờ, để ai bị rắn lửa cắn mà tin nhìn lên rắn đồng thì được
sống (Ds. 21, 19). Sự kiện đó và bao nhiêu việc lạ lùng khác yêu thương dân
Người, cứu họ khỏi chết, cho họ được sống. Giờ đây Thiên Chúa không phải chỉ
sai sứ giả phàm nhân như Môisen, để treo rắn đồng mà sai chính Con Một Thiên
Chúa xuống thế gian chịu treo mình để không chỉ cứu một dân tộc, mà cứu cả
thiên hạ được sống, không phải chỉ sống dưới đất, mà còn được sống trong vinh
quang nước trời.
Thánh Phaolô cũng nói với giáo đoàn Êphêsô phải
tin vào “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và rất mực yêu thương chúng ta, tin vào
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa”. Tác phẩm
của loài người chỉ là chữ chết hay đá gỗ mà còn mất bao nhiêu kỳ công. Huống
chi chúng ta là tác phẩm sống động của Thiên Chúa, được sáng tạo trong trái tim
Đức Giêsu để thực hiện những công trình tốt đẹp của Thiên Chúa, thì kiệt tác
biết chừng nào!
Hơn nữa chúng ta còn là tác phẩm do công trình
cứu độ của Thiên Chúa, còn tốt đẹp gấp bội hơn nữa: “Dầu chúng ta đã chết vì
phạm tội, Người vẫn cho chúng ta được sống với Đức Giêsu Kitô, được sống lại,
được ngự trị với Đức Kitô trên cõi trời, thế mới rõ tình thương và ân huệ của
Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô dồi dào phong phú vô cùng”.
Tin thì được sống tuyệt vời như thế! Kẻ không tin
thì khốn cùng, tận diệt như thế nào? Họ chuộng bóng tối, làm điều xấu xa, mỗi
ngày thêm bất trung bất nghĩa, học đòi các thói tục ghê tởm, làm nhơ nhuốc đền
thờ, khinh dể nhạo báng, chê cười các ngôn sứ, khiến Chúa nổi cơn thịnh nộ để
cho quân thù tiêu hủy triệt hạ, châm lửa đốt tất cả bọn chúng. Còn sót lại
những ai không bị gươm giết, thì bị đày làm nô lệ (Bài đọc I).
Thực ra những hình phạt hữu hình ấy bây giờ ít
xảy ra. Nhưng những đau khổ ngấm sâu tận đáy lòng kẻ không tin thì rất nhiều.
Vị cứu tinh vĩ đại của Ấn độ, thánh Grandhi đã
nói: “Không nhờ cầu nguyện thì tôi điên từ lâu rồi. Chúng ta cần nhiều nhà thờ
để bồi dưỡng sức mạnh tinh thần cho nhân dân”. Cầu nguyện và nhà thờ là biểu lộ
lòng tin. Lòng tin đã cứu ông khỏi điên. Không tin, ông đã bị điên vì đau khổ
rồi.
Giáo sư William James, người cha của khoa học tâm
lý thực nghiệm, đã viết: “Phương pháp thần diệu nhất để diệt ưu tư là đức tin
tôn giáo, vì đức tin là năng lực giúp loài người sống mạnh”. Không có đức tin,
con người là mồi ngon của ưu tư và nhu nhược.
Bác sĩ Jung, ông tổ khoa chữa bệnh tâm thần kể:
“Trong ba mươi năm gần đây, có những người thuộc đủ các nước văn minh trên thế
giới, xin tôi chữa bệnh. Tôi chữa được mấy trăm người. Họ đau vì mất thăng
bằng. Phải kiếm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh, mà tôn giáo thời nào cũng
đem lại cho tín đồ hai kho tàng quý báu: kiên nhẫn và cậy trông”. Không có tôn
giáo, thế giới văn minh sẽ mất thăng bằng, bệnh hoạn, rối loạn và tuyệt vọng.
Bà Carnegie, bậc thầy về sách học làm người, đã
kể: “Ba má tôi làm việc cực nhọc lắm, từ 4 giờ sáng đến 8-9 giờ tối, liên lỉ 16
giờ một ngày mà vẫn bị nợ nần quấy rầy. Trên ba mươi năm đầu tắt mặt tối, ba
tôi chỉ chuốc thêm nợ nần nhục nhã. Ba tôi mất ăn mất ngủ, sức lực hao mòn. Bác
sĩ nói: Ông không thể sống được quá sáu tháng nữa đâu. Lo lắng chán nản quá,
lúc lên đò qua sông lớn, ba tôi tính lao đầu xuống sông tự tử. Nhờ thoáng nghĩ
đến lời mẹ tôi khuyên: Nếu ta kính mến Chúa và giữ lời Người, mọi sự sẽ được
như ý. Một sức mạnh tin tưởng đổ dồn vào tim ông. Ông đã phấn đấu với cảnh
nghèo khổ và sống thêm 42 năm nữa. Ông thọ được 89 tuổi” (Nguyễn hiến Lê dịch
“Quẳng gánh lo đi và vui sống” của Carnegie. Tr. 206).
Nhờ đức tin Grandhi đã không bị điên, còn trở nên
thánh nhân và vĩ nhân thế giới.
Nhờ đức tin tôn giáo, bao nhiêu bệnh nhân tâm
thần đã được khỏi, sống mạnh mẽ và yêu đời.
Niềm tin tôn giáo còn tránh cho xã hội bao nhiêu
thảm họa khác nữa. Dostoievsky, một văn hào bậc nhất Liên Xô nói: “Không còn
Thiên Chúa, người ta muốn làm gì thì làm, bất chấp xấu xa, tàn ác”.
Ai tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô thì
chẳng những sống lành mạnh ở đời này mà còn được sống vinh phúc muôn đời. Ai
không tin vào Con Người thì phải chết muôn thuở.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã bao nhiêu lần nói: “Lòng
tin của con đã cứu con” (Mt. 9, 22). Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng
con được sống dồi dào và được sống đời đời.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 2: Ngước nhìn lên đi em
Nếu trong ba tuần mùa chay trước, Giáo Hội khẩn
thiết kêu gọi ta nhìn lại mình, rà soát lại sự thật về mình, về đời sống đạo
đức, về cung cách cầu nguyện, thì Chúa nhật tuần này, Giáo Hội bảo ta ngước mắt
nhìn lên. Không nhìn lên, tất cả những sự thật bẽ bàng ta gặp nơi hồn ta, sẽ
trở thành một cục đá nặng kéo chìm ta xuống, hay có khi còn trở thành một xác
chết, nằm chình ình giữa cõi lòng ta. Sao vậy? Bởi có ai đâu đủ sức mạnh và
quyền năng có thể rửa sạch được hồn ta, để có thể tháo gỡ những xiềng xích
trăng trói hồn ta, để làm tan những vết hằn in sâu do thói quen xấu xa để lại.
Ta phải ngứơc nhìn lên Thánh Giá trước mặt. Không
phải nhìn lên cây Thánh Giá, mà nhìn Đấng bị treo trên đó: Chúa Giêsu. Ngài là
Con Một duy nhất của Thiên Chúa, đã đựơc trao ban cho nhân loại tội lỗi chúng
ta. Ngài là tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa, đựơc trao ban cho con ngừơi. Ngài
hoàn toàn thánh thiện và vô tội, nhưng trong kiếp làm người, vâng lời Chúa Cha,
Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ, mà con người đổ oan và hành hạ Ngài. Ngài
vui lòng chấp nhận tất cả, không kêu ca ai oán. Ngài làm thế để dâng những nỗi đau
ấy lên Chúa Cha, để xin Chúa Cha tha thứ cho nhân loại ngập đầy tội lỗi. Và như
vậy, Ngài là Đấng duy nhất, có thể xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi được cho
con người.
Vì thế, khi ta ngước lên Ngài, bị treo trên kia
để kêu cầu, Ngài sẽ xin Chúa Cha, tha thứ những thiếu sót, lầm lỗi và tội ác
cho ta. Cây Thánh Giá không chỉ một lần dựng lên trên núi Sọ, cũng không chỉ
treo trong cung thánh nhà thờ, hay trên bàn thờ của mỗi gia đình. Mà cây thánh
giá, có Chúa Giêsu nằm trên, được treo ngay trước mắt chúng ta, ngay trong tâm
trí và linh hồn chúng ta. Không cần phải lý luận dài dòng, nhìn thấy Ngài lúc
nào cũng nằm im chịu chết trên đó. Ta hiểu được một điều quan trọng: Chúa muốn
tha tội, Chúa muốn cứu rỗi chúng ta, chứ không hề có ý phạt tội chúng ta.
Nhưng trong khi nhìn lên, để nhận được ơn tha thứ
và nâng đỡ, thì một yếu tố then chốt, không thể không nói đến, là Tin. Không
Tin, thì nhìn lên lâu mấy cũng là uổng công: “Để ai tin vào Ngài thì đựơc cứu
độ”. Thánh Kinh xác quyết như thế. Chính đức tin là chiếc chìa khóa, mở được ân
sủng dồi dào của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không ép buộc một ai. Ngài
cho con người tự do để quyết định về số phận của mình. Nhưng mà, xin cẩn thận,
khi từ chối, không tin vào Đức Giêsu, đời mình sẽ chìm vào trong tăm tối. Tự
đưa mình vào cõi tối, là tự chuốc lấy án phạt rồi.
Gợi ý suy niệm
1- Nhìn Chúa Giêsu treo trên thánh giá, có bao
giờ bạn tự hỏi: Tại sao Chúa lại chết không?
2- Bạn có muốn hồn mình được sạch không? Ai sẽ
rửa hồn bạn cho sạch?
(Suy niệm của Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm - Trích
trong ‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long Xuyên số 03/2012’)
SUY NIỆM 3: Yêu Cho Roi Cho Vọt
Ðọc Thánh kinh Cựu ước, người ta có cảm tưởng
Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt
chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ
khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những
sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa
gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai,
Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn
sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên
Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối
tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của
Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh.
Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót
thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng
sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất
bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự
hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ
của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được
nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm
đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành
phố, thiêu đốt Ðền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng
ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở
về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù,
mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ
thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ
xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của
Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt
họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho
Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị
rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa
khỏi. Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ
bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng
được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ
trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay:
Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu
chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Ðức
Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền
với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ
luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Ði tản mát khắp thế giới sau khi Ðền thờ bị phá
hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi
họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên
Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ
vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập
niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc
gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại
Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ
đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại
sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có
những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại
những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ
kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời,
có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo
cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản
nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có
khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác,
lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta
phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả
mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm
vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu,
chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư
tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta
phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi
xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội
là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc
chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc
sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Ðấng công minh và khoan hậu.
Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo
oán
nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu cho loài được sống.
Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với quyết tâm cải thiện đời sống
hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng – Trích trong
‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tội Lỗi Và Tình Thương
Lịch sử Dân Chúa là một lịch sử của ân sủng và
tội lỗi, trung thành và bất tín, đón nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Ðó
là lịch sử một tình thương hải hà, nhưng vô cùng mầu nhiệm.
Sách Khởi nguyên cho biết con người được tạo dựng
theo hình ảnh Thiên Chúa và sống trong tình thương yêu thân thiện của Người.
Nhưng ngay từ những bước đầu, tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Con người đã
phản bội Chúa. Do hành vi phản bội nguyên thủy này, tội lỗi bắt đầu thống trị.
Tội phân lìa con người ra khỏi Chúa, đẩy con người xa quỹ đạo sự sống và tình
thương, biến cuộc sống con người thành một xung khắc triền miên với bản thân,
với anh em và với thế giới. Lịch sử con người trở nên một lịch sử hận thù đầy
chém giết, tham lam và tranh chấp.
Bị dục vọng đè nén, con người không làm nổi điều
thiện mình muốn, trái lại cứ lao đầu vào hố sâu của tội ác.
Tội lỗi mãnh liệt như một quyền lực cứ luôn đè
bẹp và cầm tù con người.
Lịch sử con cháu Ađam cho thấy tội lỗi như một
vết dầu loang bao trùm cả thế giới và vũ trụ, khiến mỗi người sinh ra trong tội
(Tv 51,7).
Tội lỗi gieo rắc mầm mống sự chết khắp nơi và
biến đổi thế giới sự sống thành thế giới u sầu tang tóc.
Nếu chỉ dừng lại ở đây, chúng ta sẽ bi quan và
thất vọng. Cuộc đời sẽ hoàn toàn vô nghĩa và con người thà đừng sinh ra thì hơn
(Yb 3,1-26).
Quả thật tội lỗi đã khiến hình ảnh Thiên Chúa
trong con người bị hoen ố. Con người đánh mất hết những vẻ diễm lệ yêu kiều,
trở nên một tạo vật xấu xí trần trụi; thân thể đầm đìa máu me và vết tích.
Không ai trong chúng ta có thể tự hào là đáng
yêu, vì mỗi người đều đắm chìm trong tội.
Nhưng, tình thương của Thiên Chúa thật nhiệm mầu.
Người đã yêu thương ta, khi ta còn là những kẻ có tội. Người khiến ta là những
kẻ đã chết bởi sa ngã phạm tội, được cùng hồi sinh với Ðức Kitô (Ep 2,5).
Tiên tri Êzêkiel ví Thiên Chúa như một người qua
đường thấy dân mình quằn quại trong vũng máu, quyết đưa về tắm rửa và trang
điểm, biến thành như một thiếu nữ mỹ miều xinh đẹp (Ez 16,6-14).
Thiên Chúa chăm sóc và nuôi dưỡng dân Người.
Người để ý từng đường đi nước bước của họ. Người trìu mến như người cha, dỗ
dành như người mẹ, âu yếm như người chồng. Nhưng dân Người lại là những kẻ tình
nghĩa nhạt như nước ốc, lòng dạ bạc như vôi.
Tiên tri Hôsê ví dân Chúa như một người vợ được
chiều chuộng đủ điều, nhưng vẫn quen thói thất trung, thích chạy theo khách
mới. Thiên Chúa phải làm mọi cách cho người vợ ấy trở về (Hs 2).
Sách Ký sự cho thấy mọi thành phần dân Chúa đều
bất tín, từ đầu mục tư tế cho đến thứ dân đã chạy theo những ngẫu tượng của
ngoại bang. Họ làm hoen ố đền thờ Chúa và xúc phạm Danh Thánh Người.
Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ
giả đến với họ, nhưng họ vẫn giả điếc làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo
báng, hành hạ và giết chết các tiên tri.
Thiên Chúa, dù là Ðấng nhân ái từ bi, đã buộc
lòng phải trừng phạt vì chạm trán với lòng con người chai đá. Người cho dân đi
lưu đày, mất quê hương, mất đền thờ, mất tất cả, để từ đó họ khám phá lại những
hồng ân lớn lao của Thiên Chúa.
Và đến ngày đã định, Thiên Chúa lại đưa dân về
sau khi thanh luyện họ bằng những biến cố xảy ra trong đời họ.
Thánh Phaolô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi.
Người đã kinh nghiệm về hoạt động của tội trong chính bản thân, trong môi
trường người sống và những nơi người đến rao giảng.
Về bản thân, người đã thốt lên những lời chua
xót:
Tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội (Rm
7,14).
Không phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi
cư ngụ trong tôi (Rm 7,17).
Mọi thứ luật khác chi phối chi thể tôi, giam cầm
tôi trong tội (Rm 7,23).
Về nhân loại nói chung, người đưa ra một ý tưởng
còn táo bạo hơn nữa.
Thiên Chúa đã đón mọi người vào đàng bất tuân,
ngõ hầu dủ lòng thương hết mọi người (Rm 11,32).
Thánh Phaolô thấy rõ tội lỗi của riêng mình và
của toàn thể nhân loại, nhưng người cũng nhận thức được tình yêu và thượng trí
của Thiên Chúa. Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên
Chúa (Rm 11,33).
Thiên Chúa là Chúa của hồng ân, và "tội lỗi
phát sinh càng nhiều, ân sủng càng dồi dào gấp bội" (Rm 5,30).
Chính Ðức Giêsu Kitô là hồng ân trọn vẹn của
Thiên Chúa. Người là dấu hiệu của tình thương. Người là chính tình thương sâu
thẳm bao la của Thiên Chúa.
Tình thương của Chúa Cha đã nhiều lần trở nên hữu
hình trong lịch sử nhân loại. Tình thương đã được tỏ bày nhờ nhiều sứ giả và
qua nhiều biến cố. Và cuối cùng, tình thương đã hoàn toàn biểu lộ trong một
người, một gương mặt. Ðó là Giêsu Kitô.
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi
đã ban Con Một mình... để thế gian nhờ Người mà được cứu độ..." (Yn 3,16).
"Thiên Chúa đã không dung tha chính Con
mình, nhưng lại trao phó Người cho tất cả chúng ta" (Rm 8,32).
Chúa Cha đã biểu lộ tình thương đối với loài
người đến mức tối đa trong Ðức Giêsu Kitô, Con của Người. Và chính Ðức Giêsu
Kitô cũng đã yêu thương chúng ta đến cùng độ:
"Không có tình thương nào lớn hơn tình
thương của người chịu chết vì kẻ mình yêu thương" (Yn 15,13).
Ðức Giêsu chấp nhận chịu treo trên Thập giá để
sức mạnh tình yêu có thể kéo mọi người lên với mình, nhưng với điều kiện là con
người phải nhìn lên Thập giá và tin vào Người.
Tình thương không bao giờ cưỡng bách, nhưng đòi
hỏi một thái độ rõ rệt đón nhận hay khước từ.
Ðức Giêsu Kitô đến, không để luận phạt thế gian,
nhưng để cho thế gian được cứu rỗi.
Ai tin, nghĩa là đón nhận tình thương, thì được
sống; ai không tin thì tự hủy diệt mình vì đã từ chối sự thật và ánh sáng.
Ðức Giêsu Kitô là dấu chỉ trọn vẹn tình thương
của Chúa Cha, nên chỉ một mình Người có quyền đòi hỏi thái độ dứt khoát:
"Ai không theo Ta là chống lại Ta".
Ai không chọn yêu thương thì không ở trong Thiên
Chúa, nhưng sa lầy trong tội.
Ðối với Người, chúng ta không có con đường thứ
ba.
Giảng Lễ
"Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống thế,
không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu
rỗi".
Ðó là nội dung Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay.
Tin Mừng đó đã được chuẩn bị từ thời Cựu Ước, nhưng chỉ được thực hiện từ thời
Ðức Kitô.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều
người, nhiều cách để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện ở nơi Con Một là
Ðức Giêsu Kitô. Người đã tỏ rõ ý chí của Người thương yêu nhân loại, không muốn
thấy nhân loại chết đi như trong vụ đại hồng thủy nữa, nên đã ký kết một giao
ước tình thương với gia tộc Noe, như ta đã nghe đọc trong Chúa nhật thứ nhất
mùa Chay. Nhưng con cháu Noe đã không trung thành sống theo giao ước. Thiên
Chúa không vì vậy mà bỏ kế hoạch tình thương. Người chọn một ngành trong gia
tộc Noe để thực thi ý định. Abraham đã được chọn như Chúa nhật II mùa Chay còn
nhắc lại. Và đến khi con cái Abraham đã trở nên đông đúc, Thiên Chúa quy tụ họ
lại thành dân tộc, gọi là Dân riêng của Chúa. Và Chúa nhật III mùa Chay cho ta
thấy Người ban hiến pháp giao ước cho dân tộc ấy. Tình thương của Người cứ bị
họ lạm dụng. Ngay cả hàng tư tế trong dân cũng làm đủ điều ghê tởm, khiến chính
đền thờ Yêrusalem đã trở nên ô uế. Nếp sống đồi trụy ấy dĩ nhiên đã mở đường
cho địch quân xông vào tàn phá vườn nho của Chúa. Nhưng Chúa vẫn không quên lời
giao ước. Bài đọc I hôm nay cho ta thấy Người dùng Cyrus khôi phục lại thánh đường
Yêrusalem và dựng lại nước Israel. Cyrus, Môsê, Abraham, Noe chẳng qua chỉ là
những hình ảnh báo trước việc chính Con Một Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc
nhân loại. Và lần này phải dứt khoát và vĩnh viễn. Thế nên trong bữa tiệc ly
chúng ta cử hành bây giờ qua thánh lễ, Ðức Kitô Cứu thế đã tuyên bố: Chén Máu
Ngài cầm trong tay là chén Tân Ước vĩnh cửu, là Giao ước mới mẻ và vĩnh viễn.
Chúng ta cử hành thánh lễ, là kỷ niệm và đúc kết lại tất cả con đường lịch sử
cứu chuộc mà Thiên Chúa đã đi để cứu vớt loài người, hầu đưa họ vào tình thân
mật thánh thiện, làm nên hạnh phúc cho chính họ. Ý thức nội dung của thánh lễ
như vậy, chúng ta phải cố gắng để cử hành cho thật trang trọng và sâu xa. Và
chỉ có một cách cử hành tốt, là đón nhận Ðức Kitô và kết hợp hoàn toàn với
Người trong mầu nhiệm cứu thế.
Thế mà như lời Phúc Âm hôm nay viết: có nhiều
người không đón nhận Ðức Kitô là Cứu thế, vì họ sợ ánh sáng, sợ công việc tối
tăm của họ bị lộ tẩy khi tiếp xúc với ánh sáng. Họ muốn trốn ánh sáng, nhưng
không thể trốn nổi, vì ánh sáng đã đến trong thế gian. Chúa đã đem lời Phúc Âm
từ trời xuống; và lời Phúc Âm đã được rao giảng đến tai họ. Họ càng nhắm mắt
lại, ánh sáng của Lời Chúa càng chiếu soi trong lòng họ, khiến họ phải nhận ra
mình đang còn nhiều nết xấu, còn nhiều điều lệch lạc và phải canh tân sửa mình.
Nhiều người sợ ánh sáng của Chúa chiếu soi lương tâm, nên tìm cách lo nghĩ
những công việc thế tục hầu để lương tâm mình nằm yên trong tối tăm. Những
người ấy không đón nhận ánh sáng, không đón nhận Chúa Giêsu. Họ dự lễ, rước lễ
như để Chúa ở bên ngoài tâm hồn và đời sống. Ra khỏi nhà thờ, họ quên ngay
những lời Thánh Kinh đã nghe và không còn nhớ Chúa ở trong tâm hồn mình nữa. Họ
sẽ chạy theo hết mọi tiêu chuẩn của thế gian, khiến họ có đạo cũng dường như
không có. Nhưng ai đón nhận ánh sáng thì khác hẳn. Họ sẽ đưa lời Kinh Thánh vừa
nghe đọc vào trong mình; họ sẽ nhờ Chúa Thánh Thể đã ngự vào lòng họ. Sự hiện
diện của Lời Chúa và của Thánh Thể sẽ soi sáng lương tâm. Tối tăm sẽ dần dần
dẹp đi và tâm hồn sẽ trong sáng, đời sống họ sẽ trong sạch. Ðàng rằng ánh sáng
của Chúa luôn cho ta thấy mình còn tội lỗi và khuyết điểm. Nhưng đó là thứ ánh
sáng chữa lành mọi vết thương, giống như những người Dothái ngày trước nhìn vào
con rắn đồng, đều được cứu sống. Bởi vì khi ánh sáng của Chúa soi cho lương tâm
biết tội lỗi của mình, thì đồng thời nó cũng cho ta thấy những tội lỗi ấy có
thể được đóng đinh trên thập giá Chúa Kitô. Và như vậy tự nhiên ta sẽ cầu xin
Ðức Kitô ở trên thập giá tiêu diệt giúp tội lỗi cho ta và ta sẽ cảm thấy được
lành mạnh.
Mùa Chay đang đi dần vào tuần Thương khó. Phụng
vụ muốn ta chiêm ngưỡng thập giá Chúa Kitô. Như Môsê đã treo con rắn đồng lên
để người Dothái nhìn vào hầu được cứu sống; thánh giá ngày này là nguồn ơn cứu
độ mọi người, miễn là người ta thấy cần và muốn được cứu rỗi. Chúng ta không
thể hưởng nhờ mọi ân phúc của mùa Chay, nếu không nhìn lên thánh giá như những
người đang đau đớn vì tội lỗi. Việc xưng tội trong mùa Chay cần là vì thế. Việc
kiểm điểm đời sống để chừa bỏ nết xấu là cùng chết với Ðức Kitô trong mầu nhiệm
thương khó, hầu được sống lại với Người. Chúng ta đừng làm công việc thống hối,
ăn năn với sức lực của mình. Bài thơ Phaolô đã nói rõ. Ơn cứu độ không đến với
chúng ta qua sự nghiệp của ta đâu, nhưng qua niềm tin, tin vào lòng lân tuất
của Chúa đã cứu ta qua mầu nhiệm tử nạn của Con Ngài. Chính đường lối cứu chuộc
này khiến việc xét tội, ăn năn của ta không còn phải chỉ là một công việc nặng
nề và tiêu cực. Nhưng khi xét tội ăn năn mà nhớ tới lòng Chúa đã rộng rãi với
ta qua sự chết của Con Ngài, sẽ khiến công việc diệt tội của ta đã được nâng đỡ
bằng mầu nhiệm Phục sinh rồi. Nói như vậy không phải để chúng ta làm công việc
xét tội, ăn năn, dốc lòng một cách hời hợt. Ngược lại, nhìn vào thánh giá Ðức
Kitô như nơi phải đóng đinh tội lỗi, chúng ta biết phải ăn năn thống hối thế
nào mới được kết quả. Người muốn được ơn tha thứ và trở nên thánh thiện, phải
đặt tất cả niềm tin vào thập giá Ðức Kitô và như vậy phải muốn tiêu diệt tội
lỗi như Người. Người chấp nhận đóng đinh trong tình yêu mến Chúa Cha và thương
xót loài người. Chúng ta cũng phải tiêu diệt tội lỗi với ý hướng mến Chúa và
thương yêu đồng loại hơn. Nỗ lực canh tân đời sống, có nằm trong chiều hướng
cứu thế, mới đóng góp, tham dự vào mầu nhiệm thánh giá và mới đưa tới việc tham
dự vào mầu nhiệm Phục sinh.
Thế nên ta phải gia tăng lòng mến để đi vào các
tuần thương khó. Ta phải chia sẻ lòng Chúa Cha thương yêu muốn cho loài người
được hạnh phúc, để bằng lòng kết hợp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội
lỗi.
Mầu nhiệm này ta sắp cử hành nơi bàn thờ. Thánh
lễ hôm nay cũng như mọi thánh lễ, kêu gọi ta nhìn vào mầu nhiệm thánh giá như
bằng chứng Chúa thương yêu loài người nên chịu chết cho loài người, để ta tham
dự vào tình yêu ấy mà muốn canh tân đời sống để thế giới được hạnh phúc và
thánh thiện hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét