GIA ĐÌNH THÁNH TÂM

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

Chúa Nhật 26/02/2012. CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY – Sám Hối Và Tin Vào Tin Mừng


Chúa Nhật 26/02/2012. 
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY
Sám Hối Và Tin Vào Tin Mừng
"Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người".

Lời Chúa: Mc 1, 12-15
Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người.
đồng thời đầy tội ác. Noe hằng đi đứng rập theo ý Thiên Chúa (St. 6, 9), nên ông sẵn sàng chịu muôn ngàn đắng cay, muôn ngàn hy sinh để chiến thắng mọi thử thách cam go. Noe và gia đình đã thực sự sám hối bằng đức tin có việc làm, chứ không chỉ đau đớn hối hận. Nhờ đó, cả gia đình ông và bao nhiêu muôn chim cầm thú đã được cứu sống. Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước mới. Ông là cha một dòng dõi mới, một dân tộc mới.
Noe và dòng dõi ông là hình bóng tạm thời của Đức Giêsu là đầu một dân tộc mới, một dân tộc trường tồn muôn đời, là dân Chúa, là Giáo hội Chúa Kitô.

Bài Tin Mừng và bài đọc 2 cho thấy rõ chân lý hiển nhiên đó. Đức Giêsu, dầu là Thiên Chúa, đã đến chịu phép rửa sám hối của ông Gioan, Người cũng phải khiêm tốn chôn mình dưới sông Giócđan. Hơn nữa, Người còn phải chịu rửa bằng Thánh Thần và lửa (Mt. 3, 11); “Thánh Thần đã thúc đẩy Người vào hoang địa, ở đó lâu ngày, chịu satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú”. Hoang địa là nơi phải sống khắc khổ, thiếu thốn, nghèo khổ, nhưng trong lành, và thanh thoát mọi tham lam phàm tục. Sống nghèo khó thì lại được chúc phúc: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì nước Trời là của họ. Sống trong khóc lóc đắng cay thì lại được Thiên Chúa an ủi (Mt. 5, 3-5).
Satan là tướng quỷ dữ, gieo rắc chống lại Thiên Chúa, lôi kéo vào tội lỗi, vào cực hình. Phép rửa bằng Thánh Thần sẽ giúp chiến thắng Satan đem ta trở về Thiên Chúa, hướng dẫn ta vào con đường thánh thiện vinh phúc muôn thuở.
Sống giữa dã thú là sống giữa loài hung dữ, dã man, tàn ác, bằng phép rửa Thánh Thần sẽ thanh luyện ta sạch mọi dã man, gian tà, tội ác trở nên hiền hòa khả ái, nhân từ, yêu thương, an lành.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trở nên Con chí ái của Đức Chúa Cha, mọi sự vâng theo thánh ý Cha như Người đã cầu nguyện: “Một theo ý Cha, đừng theo ý con”. Và Đức Chúa Cha đã hoàn toàn hài lòng về Người. Người không còn một chút bẩn nhơ bụi trần, hoàn toàn siêu thoát mọi tham lam, cho nên chiến thắng và tiêu diệt tướng quỷ dễ dàng. Người sống giữa những quân thù như dã thú mà vẫn vô cùng dịu dàng nhân ái, không ai nghe thấy tiếng Người dức lác, Người không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không nỡ tắt tim đèn còn khói.
Thánh Phêrô còn nói: “Đức Kitô đã chịu chết vì tội chúng ta, Đấng công chính đã chết cho kẻ bất chính. Thân xác Người bị giết chết, nhưng nhờ Thánh Thần Người được phục sinh … Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, Người đã tiêu diệt sự chết cho chúng ta được hưởng sự sống đời đời”.
“Đức Kitô đã chịu chết”, đó chính là phép rửa bằng lửa. Lửa bừng lên trong trái tim Người vì yêu thương chúng ta. Người đã nói: “Không có tình yêu cao quý nào bằng tình yêu chết cho người mình yêu”. Lửa tình yêu mà Đức Giêsu đã thực hiện như Người nói: “Thầy đem lửa đến trần gian, Thầy ước mong lửa ấy bừng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc. 12, 49-50).
Đức Giêsu đã khắc khoải sám hối thay cho nhân loại qua chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa. Người đã hoàn tất. Các Tông đồ cũng đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần (Lễ Hiện Xuống). Thánh Thần đã thúc đẩy các ông đem lửa tình yêu của Đức Giêsu bừng cháy lên, tỏa sáng khắp thế gian, hoang địa và đã chiếu tỏa trên chúng ta, thúc đẩy chúng ta sám hối và tin vào Tin mừng. Để chúng ta cũng được chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng kiên tâm sám hối và tin vào Tin mừng, cho chúng con được thanh tẩy, để sống trong Thánh Thần và trong lửa tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

SUY NIỆM 2: Chọn Theo Chúa Là Ðón Nhận Giao Ước

Sống ở đời là phấn đấu và chọn lựa. Trong cuộc đời trần thế, Ðức Kitô đã không thoát khỏi vòng thông lệ đó.
Thật vậy, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Người đã được Thánh Linh đưa vào sa mạc để chịu thử thách giống như Ađam trong vườn địa đàng và dân Dothái suốt 40 năm trường trong sa mạc.
Nhưng Ađam đã sa ngã.
Dothái đã thất trung.
Còn Ðức Kitô đã trung thành đứng hẳn về phía Thiên Chúa. Nhờ vậy, Người đã thắng Satan.
Sau hành động quyết liệt đương đầu với chước cám dỗ, Ðức Kitô đã xuất hiện trước công chúng, rao giảng Tin Mừng và kêu gọi thống hối (Mt 4,12-17; Mc 1,14-15; Lc 4,14-15). Chẳng những cơn thử thách đã không cầm chân và quật ngã được Người, mà trái lại càng làm cho Người quyết tâm chu toàn sứ mạng.
Quả vậy, thay vì chiều theo những lời dụ dỗ mê hoặc của Satan (Mt 4,3-11; Lc 4,3-14), Ðức Kitô đã dùng lời Kinh Thánh mà khước từ mạnh mẽ. Cuối cùng Satan đã rút lui và Người đã chiến thắng. Sức mạnh làm cho Người chiến thắng là chính lời Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa.
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Ðức Kitô, nếu biết chọn đứng về phía Thiên Chúa và lắng nghe lời Người mà thay đổi nếp sống và để Người hướng dẫn đời ta.
Vì thế, có thể nói chiến thắng của Ðức Kitô cũng là chiến thắng của chúng ta. Cuộc chiến đấu của Người đã chứng tỏ: con người có thể thắng những chước mê hoặc của Satan, nếu dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa.
Cũng như Ðức Kitô, ta không chấp nhận dùng Thiên Chúa như một phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu thế tục; hoặc như một sức mạnh ma thuật để làm những việc phi thường; hay qụy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ (Mt 4,3-10). Chính Thiên Chúa mới là chủ tể vũ trụ và Người điều khiển lịch sử loài người.
Trong lịch sử Dothái, Thiên Chúa đã trực tiếp hướng dẫn dân Người và đã chuẩn bị họ đón nhận Giao ước như một ân huệ. Người đã đem họ ra khỏi Aicập và dẫn đưa qua sa mạc để thanh luyện tâm hồn họ và để họ chọn lựa tin vào Thiên Chúa, nghĩa là đứng hẳn về phía Người. Còn Người đã nuôi sống họ bằng Manna, một ân huệ từ trời xuống, Ðức Kitô, sau khi quyết định đứng về phía Thiên Chúa và nhờ đó chiến thắng Satan, cũng đã được Thiên Thần mang của ăn từ trời đến nuôi dưỡng và hầu hạ. Cuộc thử thách của Ðức Kitô đã chuẩn bị Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nghĩa là thiết lập Giao ước mới trong cái chết và cuộc phục sinh của Người.
Trước khi lập Giao ước với loài người, Thiên Chúa luôn dùng một khoảng thời gian để chuẩn bị và thanh luyện. Lục Ðại Hồng Thủy 40 đêm ngày thời Noe là một bằng chứng khác. Sau cơn tàn phá, mà chỉ một mình ông và một số ít người theo ông được cứu thoát, Thiên Chúa đã ký kết với ông một Giao ước ân tình: từ nay Người sẽ không bao giờ còn tàn phá mặt đất nữa. Từ đây bắt đầu một giai đoạn mới với một lớp người biết đặt hết lòng tin tưởng vào Chúa. Biểu hiệu cho Giao ước này là một cầu vòng hình cánh cung đặt ngang trời. Mỗi khi nhìn thấy nó là Thiên Chúa nhớ lại tình thương vô điều kiện của Người đối với nhân loại: từ nay Người giao hòa cùng vạn vật, gác cung lên, không còn dùng đến nữa và bảo toàn sinh mạng cho muôn loài.
Chọn theo Chúa là đón nhận Giao ước. Nhưng ân huệ Giao ước luôn đi kèm với thử thách. Mà thử thách chỉ là để chuẩn bị cho loài người một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, vì tuy có hủy diệt nhưng là để tái tạo, tuy có đau khổ nhưng là để thanh luyện, nhằm đưa vào Ðất Hứa. Ðức Kitô cũng đã chịu chết, nhưng Người đã sống lại và đem đến cho ta sự sống vĩnh cửu, nhờ cái chết và cuộc Phục sinh của Người để tiêu diệt tội lỗi và thanh luyện tâm hồn.
GIẢNG LỄ
Chúng ta đã bước vào mùa Chay Thánh từ hôm thứ Tư lễ Tro vừa rồi. Và có lẽ theo truyền thống, chúng ta đã bắt đầu có những quan niệm nghiêm ngặt và khắc khổ về nếp sống phải có trong mùa này; đến nỗi sau khi nghe 3 bài đọc Sách Thánh hôm nay, có lẽ chúng ta chỉ còn nhớ tư tưởng Chúa Yêsu ngày trước đã bị cám dỗ trong sa mạc. Quả thật, ngày Chúa Nhật thứ I mùa Chay thường được mệnh danh là ngày Chúa nhật Chúa bị cám dỗ. Nhưng ước gì chúng ta hãy nghĩ đúng về biến cố này, như các bài đọc Kinh Thánh hôm nay cho thấy, đã biết đúng ý của Giáo hội muốn chúng ta sống ngày hôm nay và suốt tuần lễ này như thế nào.
Chúng ta hãy bắt đầu nhớ lại đúng ý tưởng của bài đọc thứ I hôm nay. Yavê Thiên Chúa ký kết Giao ước thân hữu với Noe và con cháu ông sau khi họ ra khỏi tàu. Như vậy rõ ràng bài Cựu Ước muốn nhắc nhở lại quãng thời gian nhân loại được hạnh phúc sống trong tình nghĩa của Chúa, sau khi Ngài đã cứu họ ra khỏi nạn lụt 40 đêm ngày. Phải chăng Giáo hội không muốn dùng bài Sách Thánh ấy để nói lên thời đại Ân sủng đang chờ ta 40 ngày chay thánh này? Thời đại ấy, nói cho đúng, hiện ta đang sống đây, như bài đọc II cho thấy. Chúng ta là những người đã chịu phép Rửa của Ðức Kitô, đã được đưa ra khỏi cảnh ngập lụt tội lỗi, để sống trong tình thân ái của Thiên Chúa mà mầu nhiệm Phục sinh đem lại cho chúng ta.
Như vậy thời gian chúng ta đang sống, thời gian mùa Chay Thánh, trước tiên là thời gian Ân sủng, thời gian Chúa yêu thương chúng ta và muốn giao ước thân hữu mãi mãi với mọi người. Thế nên không ai được sợ đi vào mùa Chay Thánh. Ðừng ai nghĩ ngay tới việc ăn chay, hãm xác, kẻo đâm ra ngại ngùng. Ngược lại, chúng ta cần nhớ mình là những người đã được chịu phép Rửa, đã được đưa ra khỏi trận lụt Hồng Thủy của tội lỗi, để bây giờ được Thiên Chúa coi như con cái, như và hơn xưa Ngài đã xử sự với Noe và con cái ông. Chỉ với những tâm tình như vậy, chúng ta mới hiểu được hết ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay và mới kết hợp được với Ðức Kitô trong mầu nhiệm mà Phụng vụ hôm nay đang cử hành.
Thật vậy, muốn hiểu đúng ý mấy câu Phúc Âm vắn tắt mà Marcô đã viết, chúng ta phải nhớ lại mấy câu trước, kể việc Chúa chịu phép rửa. Chính khi vừa ở bờ sống thanh tẩy lên, Ðức Kitô đã được Chúa Cha tuyên phong là Con rất yêu dấu và được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên mình. Chính khi ấy, Người cũng đã được Thánh Thần hướng dẫn vào sa mạc. Và nếu dùng chính những chữ của Marcô, Người đã được Thánh Thần đẩy vào sa mạc, ở đó 40 đêm ngày. Ở bờ sống thanh tẩy lên, Ðức Kitô như nhân loại trong ngày ra khỏi tàu Noe. Ðúng hơn nữa, Ngài như toàn thể Dân Chúa ra khỏi dòng Biển Ðỏ. Ngài cô đọng, tập trung ở nơi mình, tất cả Dân Chúa được cứu vớt và giải thoát. Ngài thật xứng đáng được tuyên phong là Con yêu dấu duy nhất của Thiên Chúa Cha. Ngài đi đâu bây giờ, nếu không đi vào sa mạc, vì đừng tưởng sa mạc là nơi ghê gớm, đầy dẫy quỷ ma. Không, theo truyền thống tiên khởi của Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Hôsê đã diễn tả đúng ý nghĩa của sa mạc nhất khi ông viết thay cho Chúa: " Ta sẽ kéo người yêu của ta vào sa mạc, để ở đó ta thủ thỉ với nàng" (2,16). Sa mạc, như vậy, là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Ðược tuyên dương là Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha xong và được đầy tràn Thánh Thần yêu mến, Ðức Kitô được đẩy vào sa mạc là phải. Chính tình yêu đã đẩy bước chân Ngài vào sa mạc để sống trong tình mật thiết với Thiên Chúa, để sống lại trọn vẹn 40 năm trời Dân Chúa xưa đã sống trong sa mạc, nhưng không được tốt lành hoàn toàn. Một chi tiết cuối cùng khiến ta phải nghĩ: được đưa vào sa mạc, Ðức Kitô đã sống trong tình con thảo đối với Thiên Chúa Cha.
Ðó là mấy câu Phúc Âm Marcô viết: "Ở trong sa mạc Người sống với thú rừng, và các thiên thần hầu hạ Người". Mấy lời mộc mạc ấy gợi lên hình ảnh của vườn địa đàng xưa. Adong khi ấy cũng sống giữa muông thú, nhưng chúng hiền lành và giao hảo với ông. Viết mấy câu mộc mạc trên, Marcô cũng có ý nói lên ý tưởng: Ðức Kitô là Adong mới; Ngài đến trong thế gian để xây dựng lại vườn địa đàng xưa, khiến mọi hiềm khích giữa loài người và vạn vật không còn nữa. Ngoài ra người ta còn giao tiếp với những bậc thần linh như các thiên sứ.
Như vậy, bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Ðức Kitô đi vào sa mạc như là Ðấng Cứu Thế đến trong trần gian để thể hiện lời sách Isaia viết: trong thời đại thiên sai, sư tử sẽ gặm cỏ chung với bê non. Ngài đem Nước Trời đến, hoàn tất giao ước thân hữu mà Thiên Chúa đã ký kết với Noe. Nước Trời đó, chúng ta đã được lãnh nhận, vì đã chịu phép Rửa tội, như bài đọc thứ II đã viết. Chúng ta đang sống trong Nước Trời, trong Giao ước của Chúa; chúng ta đang sống trong mùa Chay 40 ngày của Chúa trong sa mạc, nơi Ngài mật thiết liên kết với Thiên Chúa Cha, trong Thánh Thần yêu mến. Thế thì chúng ta cũng phải có thái độ như Ngài. Và đó là ý nghĩa của việc Chúa bị cám dỗ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu bây giờ.
Ở trong vườn địa đàng, Adong đã bị cám dỗ. Con cái Noe sống trong Giao ước cũng đã gặp thử thách. Dân Chúa trong sa mạc còn gặp nhiều hơn nữa. Tất cả đều nói lên rằng hạnh phúc con người ở trần gian này có thể bị tan vỡ. Tình yêu Thiên Chúa ở nơi ta có thể bị thử thách. Và rõ rệt tất cả loài người đã sa ngã, đã phạm tội. Adong đã phạm tội; con cháu Noe cũng vậy; dân Chúa ngày xưa cũng thế. Trong Cựu Ước, xem ra chỉ có một người không sa ngã. Nói đúng hơn chỉ có câu truyện một người bị cám dỗ mà vẫn không sa ngã, để làm gương cho ta: đó là truyện ông Yob, một truyện được xây dựng có mục đích răn bảo, nên không cần đặt vấn đề có hay không. Nhưng điều mà sách Yob gợi lên, đề cao sự trung thành với Thiên Chúa qua bất cứ gian nan thử thách nào, điều đó đã được thực hiện nơi Ðức Kitô. Ở trong sa mạc, Ngài bị Satan cám dỗ, nhưng Ngài đã lướt thắng một cách bình an chân thật, báo trước việc Ngài sẽ đi qua con đường thập giá đau thương mà cuối cùng vẫn trung tín thưa cùng Chúa Cha: Con xin phó mạng sống con trong tay Cha.
Chúng ta không cần đi sâu vào chi tiết để thấy Chúa bị cám dỗ và lướt thắng như thế nào. Bài học của chúng ta hôm nay chỉ cần ghi nhận: đang sống trong Nước Trời, chúng ta phải cẩn thận kẻo mất tình nghĩa thân mật với Chúa. Và nếu mất là rơi vào số phận của Adong, của con cái Noe, của dân Israel ngày trước. Mọi hạng người ấy đã không giữ giao ước, đã không giữ Lời Chúa, đã nghe theo một tiếng nói xúi giục ngược với Lời Chúa dạy. Ngày nay và hằng ngày, không có những tiếng xúi giục, cám dỗ như thế sao? Ðừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài. Tiếng của Satan sẽ có thể nói lên ở ngay trong tâm hồn ta: sống theo Phúc Âm làm sao được? Như vậy sẽ thiệt thòi quá! Sống như người ta, làm như thế gian, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục như vậy là phản bội giao ước, là từ bỏ Lời Chúa, là lựa chọn không đi với Chúa nữa.
Chúa đã yêu thương đi tìm ta đưa vào sa mạc. Ngài chịu gian khổ để dẫn ta qua dòng nước Rửa tội. Ta đang sống trong Nước Trời và trong tình nghĩa của Ngài. Hôm nay ta còn đến đây để dự lễ, để thấy Chúa thương ta như ta vừa hiểu qua các bài đọc Sách Thánh, để còn uống thêm chén giao ước của Ngài trong Thánh Thể mà ta cử hành bây giờ. Chúng ta còn có thể có thái độ nào khác hơn là dứt khoát đứng về bên Chúa, chọn Lời Chúa làm lẽ sống, lấy tình Ngài làm hạnh phúc. Có như vậy chúng ta mới thật sự sống với Ðức Kitô trong mầu nhiệm sa mạc, trong mùa Chay 40 ngày mà ta đang cử hành.
Chúng ta hãy cương quyết đứng lên tuyên xưng đức tin của mình để suốt đời trung tín với Phúc Âm, với Giáo Hội, với tình yêu thương của Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

SUY NIỆM 3: Sa mạc không nóng

Có nhiều thứ hoang mạc: Có hoang mạc chỉ toàn là cát, có hoang mạc chỉ toàn là đất và đá màu vàng, nhưng không một cây cỏ nào có thể mọc được như hoang mạc ở phía bắc Israel. Có hoang mạc chỉ là những bãi sình lầy lồi lõm; phèn chua, chỉ có cỏ lăn là sống được. Nói chung lại, hoang mạc là một vùng đất hoang vắng, tĩnh lặng. Vì vậy, người ta thường nghĩ hoang mạc là một vùng đất chết.
Thực ra, thì không phải thế. Ẩn sau cái bên ngoài hoang vu chết chóc ấy, hoang mạc, lại là nơi thuận tiện, để cho sự sống phát sinh. Bao nhiêu phát minh khoa học, đã được tìm thấy, trong những căn phòng lặng im, bền bỉ. Bao nhiêu những thành công cả về kinh tế, lẫn quân sự, cũng đã được khơi nguồn, từ những tháng ngày lặng yên, suy tính.
Trước khi bước vào đời sống công khai rao giảng. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng được Chúa Thánh Thần đưa vào hoang địa để ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày. Vào đó, để gặp gỡ với Thiên Chúa Cha, để dự phòng, sắp xếp, cân nhắc, cho công việc chính yếu của công trình cứu độ nhân loại: Đi rao giảng. Nhìn việc Chúa làm. Ta hiểu được một chân lí quan trọng: Trong cuộc đời, phải có những giây phút trở về trong thinh lặng, nhất là khi đứng trước những công việc hệ trọng.
Sau 40 đêm ngày chìm trong yên tịch và cầu nguyện, cũng như ăn chay và hãm mình. Chúa bắt đầu bước đi rao giảng. Lời nói đầu tiên là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là cánh cửa trước hết và duy nhất để có thể bước vào cuộc sống mới, một cuộc sống cao thượng và phong phú. Nhưng sao lại phải sám hối? Bởi mình nhiều thiếu sót và lầm lỗi.
Nhưng để có thể sám hối, người ta cũng phải đi vào vùng hoang địa của hồn mình. Trong đó, lặng lẽ ta gặp lại chính ta, ta nhìn lại chính ta. Ta nhìn thấy những bước chân sai. Sai lạc trong cái nhìn, sai lạc trong chiều kích suy tư, sai lạc trong lời nói, sai lạc trong quyết định, sai lạc trong cư xử, và sai lạc trong hành động của mình. Chìm sâu trong những sai lạc đó, ta hất chúng đi, sửa lại, và sầu buồn về những thiếu sót của mình. Rồi từ đó, ta sám hối. Giọt nước mắt ăn năn, lặng lẽ nhỏ vào hồn mình. Với ơn Chúa, rửa sạch hồn ta cho thanh sạch. Thế là hồn ta nhẹ nhàng, tươi mới. Ta cố vươn lên về phía mặt trời cứu rỗi. Và thế là cuộc sống mới bắt đầu một cuộc sống mới đầy tràn ân sủng và chân lý. Một cuộc sống bình an sâu thẳm, và chứa chan hạnh phúc nhiệm mầu.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét