Thánh lễ kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ XIII
Lúc 9 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật hôm qua Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự thánh lễ trong đền thờ thánh Phêrô kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XIII. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có hàng chục Hồng Y và các Tổng Giám Mục và Giám Mục nghị phụ, trong đó có Đức Cha Nguyễn Năng, Giám Mục Phát Diệm, và Đức Cha Vũ Duy Thống, Giám Mục Phan Thiết. Tham dự thánh lễ có khoảng 10.000 tín hữu và du khách hành hương.
Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã khai triển ý nghĩa phép lạ Chúa Giêsu cho người mù thành Giêricô được sáng mắt, lồng khung trong đề tài tái truyền giảng Tin Mừng, đã được các nghị phụ thảo luận trong Thượng Hồi Đồng Giám Mục.
Phép lạ chữa anh mù Bartimeo có thế đứng quan trọng trong cấu trúc Phúc Âm thánh Marcô. Nó được đặt ở cuối phần gọi là ”chuyến lên Giêrusalem”, nghĩa là cuộc hành hương cuối cùng của Chúa Giêsu về Thành Thánh, để tham dự lễ Vượt Qua, trong đó cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh chờ đợi Người.
Để lên Giêrusalem từ thung ]ũng Giọcđan Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, và cuộc gặp gỡ với anh mù xảy ra, khi Người ra khỏi thánh phố. Tất cả Phúc Âm thánh Marcô là một lộ trình đưc tin, được khai triển từ từ theo trường học của Chúa Giêsu. Các môn đệ là các tác nhân đầu tiên của lộ trình khám phá đó, nhưng cũng có những người khác có vai trò đáng kể, trong đó có cả anh mù Bartimeo nữa. Phép lạ chữa anh là phép lạ cuối cùng Chúa Giêsu làm trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Và không phải tình cờ việc chữa lành một người có đôi mắt đã mất đi ánh sáng. Đức Thánh Cha nêu bật ý nghĩa biểu tượng của anh mù Bartimeo như sau:
Anh diễn tả người cần ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng của đức tin, để thực sự hiểu biết thực tại và bước đi trên con đường cuộc sống. Điều nòng cốt là nhận biết mình mù lòa, cần đến ánh sáng ấy, nếu không ta sẽ mù luôn mãi (x. Ga 9,39-41).
Anh ta đã không mù từ lúc mới sinh, nhưng đã mất đi khả năng nhìn thấy. Anh là người đã mất đi ánh sáng và ý thực được điều đó, nhưng đã không mất niềm hy vọng. Anh biết tiếp nhận khả thể gặp Chúa Giêsu và tin tưởng nơi Người để được chữa lành. Thật thế, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua trên đường, anh kêu lên: ”Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi!” và anh lập lại lời kêu xin mạnh hơn. Và khi Chúa Giêsu gọi anh lại và hỏi anh muốn gì nơi Người, anh thưa: ”Lậy Thầy, xin cho tôi lại thấy”. Bartimeo diễn tả người nhận biết bệnh tật của mình và kêu lên Chúa, tin tưởng được chữa lành. Lời kêu xin của anh đơn sơ, chân thành và gương mẫu, giống như lời kêu xin của người thu thuế ”Lậy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13), lời cầu ấy đã đi vào trong truyền thống lời cầu kitô. Trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, được sống với đức tin, anh mù Bartimeo có được trở lại ánh sáng đã mất, và với nó là phẩm giá tràn đầy của mình: anh đứng dậy và đi trở lại con đường, mà từ lúc đó có một người hướng dẫn là Đức Giêsu, và anh đi cùng một con đường Đức Giêsu đi. Thánh sử không nói gì về Bartimeo nữa, nhưng nơi anh thánh sử giới thiệu với chúng ta ai là người môn đệ: đó là người theo Chúa Giêsu trên đường với ánh sáng đức tin.
Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói thánh Agostino đã suy tư và đưa ra một nhận xét rất đặc biệt về gương mặt của anh mù Bartimeo, nó cũng có ý nghĩa đối với chúng ta ngày nay : đó là sự kiện thánh sử Marcô không chỉ kể tên của người được sáng mắt mà cả tên của cha anh ta nữa, anh là Bartimeo con của Timeo. Và thánh nhân kết luận rằng anh ta là một nhân vật đã từ một cuộc sống rất phong phú rơi xuống sự bần cùng, và điều kiện bần cùng của anh được mọi người biết tới: anh không chỉ mù lòa, mà còn là người ăn mày bên vệ đường nữa.
Việc giải thích này mời gọi chúng ta suy tư về sự kiên có các sự phong phú qúy báu,không phải là vật chất, mà chúng ta có thể mất. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Trong viễn tượng này, anh mù Bartimeo có thể diễn tả những người sống trong các vùng đất xưa kia đã được truyền giảng Tin Mừng, nơi ánh sáng đức tin đã suy yếu đi, họ đã xa rời Thiên Chúa, và không coi Người quan trọng đối với cuộc sống của họ nữa. Vì thế họ là những người đã mất đi một sự giầu có lớn; họ đã rơi xuống từ một phẩm giá cao trọng, không phải phảm giá kinh tế hay quyền lực trần gian, nhưng là phẩm giá kitô; họ đã mất đi định hướng vững chắc của cuộc sống và đã trở thành những người ăn mày ý nghĩa cuộc sống, thường khi một cách vô thức. Họ là biết bao nhiêu người cần được tái truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là cần có một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Đấng có thể tái mở đôi mắt cho họ và chỉ đường cho họ. Phúc Âm mà phụng vụ hôm nay đề nghị có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta, những người trong các ngày qua đã đương đầu với sự cấp thiết tái loan báo Chúa Kitô, tại những nơi ánh sáng đức tin đã suy yếu, ở những nơi lửa của Thiên Chúa, như lửa hỏa lò, cần được tái nhóm, để là lửa sinh động trao ban ánh sáng và hơi ấm cho cả nhà.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đề cập tới ba khía cạnh của việc tái truyến giảng Tin Mừng. Thứ nhất nó liên quan tới toàn cuộc sống Giáo Hội và công tác mục vụ bình thường, cần được linh hoạt bởi lửa của Chúa Thánh Thần để đốt cháy con tim tín hữu. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đề ra ba đường hướng mục vụ. Thứ nhất cần phải đồng hành và chuẩn bị cho tín hữu lãnh nhận các bí tích khai tâm là Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể. Bí tích sám Hối, bí tih của lòng thương xót Chúa, cũng quan trọng. Lời Chúa mời gọi mọi kitô hữu nên thánh đi qua lộ trình của các bí tích ấy.
Thứ hai việc tái truyền giảng Tin Mừng gắn liền với sứ mệnh đến với dân ngoại. Giáo Hội có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng loan báo Sứ điệp cứu độ cho những ai chưa nhận biết Chúa Kitô. Có biềt bao nhiêu môi trường tại Á châu, Phi chậu và Đại dương châu, trong đó dân chúng chờ đợi được loan báo Tin Mừng. Vì thế cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần để Người dấy lên trong Giáo Hội năng động truyền giáo mới, với các tác nhân là các nhân viên mục vụ và giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng cũng cần thiết đối với các nước đã đươc truyền giáo xưa kia. Tất cả mọi người đều có quyền hiểu biết Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Vì thế mọi kitô hữu linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ đều có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Điểm thứ ba liên quan tới các tín hữu đã lãnh bí tích Thánh Tẩy, nhưng không sống các đòi buộc của nó, đặc biệt tại các nước bị tục hóa nhất. Giáo Hội đặc biệt chú ý đến họ, để giúp họ tái gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô và tái khám phá ra niềm vui của đức tin và thực hành đạo trở lại trong các cộng đoàn. Ngoài các phương pháp truyền thống, Giáo Hội cũng tìm sử dụng các phương pháp mới, với các ngôn ngữ mới thích hợp với các nền văn hóa khác nhau của thế giới, trong việc đề nghị chân lý của Chúa Kitô, với thái độ đối thoại và tình bạn bắt nguồn từ Thiên Chúa tình yêu, qua các đại hội như ”Sân của dân ngoại”, sứ mệnh truyền giáo đại lục vv...
Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Ý, Ba Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, A rập và Tchèques. Trong phần hiệp lễ Đức Thánh Cha đã trao Mình Thánh Chúa cho một số tín hữu, trong khi 50 linh mục đã cho tín hữu rưởc lễ.
Lúc 12 giờ Đức Thánh Cha đã ra cửa sổ phòng làm việc của ngài để đọc kinh Truyền Tin chung với mấy chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã bầy tỏ tình liên đới với các nạn nhân của trận bão lớn càn quét các nước Cuba, Haiti, Giamaica và quần đảo Bahamas, khiến cho nhiều người chết và gây ra các thiệt hại to lớn. Đức Thánh Cha bầy tỏ sự gần gũi của ngài, ngài cầu nguyện cho các nạn nhân và kêu gọi tình liên tới của mọi người để làm vơi nhẹ nỗi khổ đau cho gia đình các nạn nhân và cứu trợ hàng ngàn người gặp nạn.
Trước đó, trong bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha đã cảm tạ Chúa đã cho mọi người sống kinh nghiệm vẻ đẹp là Giáo Hội giữa thế giới này với các mệt nhọc và hy vọng của nó. Ngài đã tóm tắt thành qủa của Thượng Hội Đồng Giám Muc như sau:
Ngay từ bây gìơ chúng ta có thể nói rằng từ Thượng Hội Đồng Giám Mục này nảy sinh ra dấn thân canh tân tinh thần trong chính Giáo Hội, để có thể canh tân tinh thần thế giới bị tục hóa. Và việc canh tân này sẽ bắt nguồn từ việc tái khám phá ra Chúa Giêsu Kitô, từ sự thật, ơn thánh và gương mặt là Người và là Thiên Chúa của Người, trên đó rạng ngời mầu nhiệm siêu việt của Thiện Chúa.
Đức Thánh Cha nói: trong ba tuần các nghị phụ đã đương dầu với việc tái truyền giảng Tin Mừng. Toàn thể Giáo Hội đã hiện diện và bị lôi cuốn vào dấn thân này. Thượng Hội Đồng Giám Mục là thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất giáo hội. Nó càng ý nghĩa hơn nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mở Công Đồng Chung Vaticăng II và bắt đầu Năm Đức Tin. Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI đã giúp chúng ta hiểu rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng là năng động phát triển trong Giáo Hội, đặc biệt từ thập niên 1950 khi các nước cựu kitô trở thành ”vùng truyền giáo”... Chúng ta hãy phó thác cho Đức Trinh Nữ Maria các hoa trái công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa mới kết thúc. Xin Mẹ là Ngôi Sao của việc tái truyền giảng Tin Mừng dậy đỗ và giúp chúng ta can đảm và tươi vui đem Chúa Kitô tới với tất cả mọi người.
Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiển Khải
- www.vietvatican.net
Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã khai triển ý nghĩa phép lạ Chúa Giêsu cho người mù thành Giêricô được sáng mắt, lồng khung trong đề tài tái truyền giảng Tin Mừng, đã được các nghị phụ thảo luận trong Thượng Hồi Đồng Giám Mục.
Phép lạ chữa anh mù Bartimeo có thế đứng quan trọng trong cấu trúc Phúc Âm thánh Marcô. Nó được đặt ở cuối phần gọi là ”chuyến lên Giêrusalem”, nghĩa là cuộc hành hương cuối cùng của Chúa Giêsu về Thành Thánh, để tham dự lễ Vượt Qua, trong đó cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh chờ đợi Người.
Để lên Giêrusalem từ thung ]ũng Giọcđan Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, và cuộc gặp gỡ với anh mù xảy ra, khi Người ra khỏi thánh phố. Tất cả Phúc Âm thánh Marcô là một lộ trình đưc tin, được khai triển từ từ theo trường học của Chúa Giêsu. Các môn đệ là các tác nhân đầu tiên của lộ trình khám phá đó, nhưng cũng có những người khác có vai trò đáng kể, trong đó có cả anh mù Bartimeo nữa. Phép lạ chữa anh là phép lạ cuối cùng Chúa Giêsu làm trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Và không phải tình cờ việc chữa lành một người có đôi mắt đã mất đi ánh sáng. Đức Thánh Cha nêu bật ý nghĩa biểu tượng của anh mù Bartimeo như sau:
Anh diễn tả người cần ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng của đức tin, để thực sự hiểu biết thực tại và bước đi trên con đường cuộc sống. Điều nòng cốt là nhận biết mình mù lòa, cần đến ánh sáng ấy, nếu không ta sẽ mù luôn mãi (x. Ga 9,39-41).
Anh ta đã không mù từ lúc mới sinh, nhưng đã mất đi khả năng nhìn thấy. Anh là người đã mất đi ánh sáng và ý thực được điều đó, nhưng đã không mất niềm hy vọng. Anh biết tiếp nhận khả thể gặp Chúa Giêsu và tin tưởng nơi Người để được chữa lành. Thật thế, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua trên đường, anh kêu lên: ”Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi!” và anh lập lại lời kêu xin mạnh hơn. Và khi Chúa Giêsu gọi anh lại và hỏi anh muốn gì nơi Người, anh thưa: ”Lậy Thầy, xin cho tôi lại thấy”. Bartimeo diễn tả người nhận biết bệnh tật của mình và kêu lên Chúa, tin tưởng được chữa lành. Lời kêu xin của anh đơn sơ, chân thành và gương mẫu, giống như lời kêu xin của người thu thuế ”Lậy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13), lời cầu ấy đã đi vào trong truyền thống lời cầu kitô. Trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, được sống với đức tin, anh mù Bartimeo có được trở lại ánh sáng đã mất, và với nó là phẩm giá tràn đầy của mình: anh đứng dậy và đi trở lại con đường, mà từ lúc đó có một người hướng dẫn là Đức Giêsu, và anh đi cùng một con đường Đức Giêsu đi. Thánh sử không nói gì về Bartimeo nữa, nhưng nơi anh thánh sử giới thiệu với chúng ta ai là người môn đệ: đó là người theo Chúa Giêsu trên đường với ánh sáng đức tin.
Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói thánh Agostino đã suy tư và đưa ra một nhận xét rất đặc biệt về gương mặt của anh mù Bartimeo, nó cũng có ý nghĩa đối với chúng ta ngày nay : đó là sự kiện thánh sử Marcô không chỉ kể tên của người được sáng mắt mà cả tên của cha anh ta nữa, anh là Bartimeo con của Timeo. Và thánh nhân kết luận rằng anh ta là một nhân vật đã từ một cuộc sống rất phong phú rơi xuống sự bần cùng, và điều kiện bần cùng của anh được mọi người biết tới: anh không chỉ mù lòa, mà còn là người ăn mày bên vệ đường nữa.
Việc giải thích này mời gọi chúng ta suy tư về sự kiên có các sự phong phú qúy báu,không phải là vật chất, mà chúng ta có thể mất. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Trong viễn tượng này, anh mù Bartimeo có thể diễn tả những người sống trong các vùng đất xưa kia đã được truyền giảng Tin Mừng, nơi ánh sáng đức tin đã suy yếu đi, họ đã xa rời Thiên Chúa, và không coi Người quan trọng đối với cuộc sống của họ nữa. Vì thế họ là những người đã mất đi một sự giầu có lớn; họ đã rơi xuống từ một phẩm giá cao trọng, không phải phảm giá kinh tế hay quyền lực trần gian, nhưng là phẩm giá kitô; họ đã mất đi định hướng vững chắc của cuộc sống và đã trở thành những người ăn mày ý nghĩa cuộc sống, thường khi một cách vô thức. Họ là biết bao nhiêu người cần được tái truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là cần có một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Đấng có thể tái mở đôi mắt cho họ và chỉ đường cho họ. Phúc Âm mà phụng vụ hôm nay đề nghị có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta, những người trong các ngày qua đã đương đầu với sự cấp thiết tái loan báo Chúa Kitô, tại những nơi ánh sáng đức tin đã suy yếu, ở những nơi lửa của Thiên Chúa, như lửa hỏa lò, cần được tái nhóm, để là lửa sinh động trao ban ánh sáng và hơi ấm cho cả nhà.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đề cập tới ba khía cạnh của việc tái truyến giảng Tin Mừng. Thứ nhất nó liên quan tới toàn cuộc sống Giáo Hội và công tác mục vụ bình thường, cần được linh hoạt bởi lửa của Chúa Thánh Thần để đốt cháy con tim tín hữu. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đề ra ba đường hướng mục vụ. Thứ nhất cần phải đồng hành và chuẩn bị cho tín hữu lãnh nhận các bí tích khai tâm là Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể. Bí tích sám Hối, bí tih của lòng thương xót Chúa, cũng quan trọng. Lời Chúa mời gọi mọi kitô hữu nên thánh đi qua lộ trình của các bí tích ấy.
Thứ hai việc tái truyền giảng Tin Mừng gắn liền với sứ mệnh đến với dân ngoại. Giáo Hội có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng loan báo Sứ điệp cứu độ cho những ai chưa nhận biết Chúa Kitô. Có biềt bao nhiêu môi trường tại Á châu, Phi chậu và Đại dương châu, trong đó dân chúng chờ đợi được loan báo Tin Mừng. Vì thế cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần để Người dấy lên trong Giáo Hội năng động truyền giáo mới, với các tác nhân là các nhân viên mục vụ và giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng cũng cần thiết đối với các nước đã đươc truyền giáo xưa kia. Tất cả mọi người đều có quyền hiểu biết Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Vì thế mọi kitô hữu linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ đều có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Điểm thứ ba liên quan tới các tín hữu đã lãnh bí tích Thánh Tẩy, nhưng không sống các đòi buộc của nó, đặc biệt tại các nước bị tục hóa nhất. Giáo Hội đặc biệt chú ý đến họ, để giúp họ tái gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô và tái khám phá ra niềm vui của đức tin và thực hành đạo trở lại trong các cộng đoàn. Ngoài các phương pháp truyền thống, Giáo Hội cũng tìm sử dụng các phương pháp mới, với các ngôn ngữ mới thích hợp với các nền văn hóa khác nhau của thế giới, trong việc đề nghị chân lý của Chúa Kitô, với thái độ đối thoại và tình bạn bắt nguồn từ Thiên Chúa tình yêu, qua các đại hội như ”Sân của dân ngoại”, sứ mệnh truyền giáo đại lục vv...
Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Ý, Ba Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, A rập và Tchèques. Trong phần hiệp lễ Đức Thánh Cha đã trao Mình Thánh Chúa cho một số tín hữu, trong khi 50 linh mục đã cho tín hữu rưởc lễ.
Lúc 12 giờ Đức Thánh Cha đã ra cửa sổ phòng làm việc của ngài để đọc kinh Truyền Tin chung với mấy chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã bầy tỏ tình liên đới với các nạn nhân của trận bão lớn càn quét các nước Cuba, Haiti, Giamaica và quần đảo Bahamas, khiến cho nhiều người chết và gây ra các thiệt hại to lớn. Đức Thánh Cha bầy tỏ sự gần gũi của ngài, ngài cầu nguyện cho các nạn nhân và kêu gọi tình liên tới của mọi người để làm vơi nhẹ nỗi khổ đau cho gia đình các nạn nhân và cứu trợ hàng ngàn người gặp nạn.
Trước đó, trong bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha đã cảm tạ Chúa đã cho mọi người sống kinh nghiệm vẻ đẹp là Giáo Hội giữa thế giới này với các mệt nhọc và hy vọng của nó. Ngài đã tóm tắt thành qủa của Thượng Hội Đồng Giám Muc như sau:
Ngay từ bây gìơ chúng ta có thể nói rằng từ Thượng Hội Đồng Giám Mục này nảy sinh ra dấn thân canh tân tinh thần trong chính Giáo Hội, để có thể canh tân tinh thần thế giới bị tục hóa. Và việc canh tân này sẽ bắt nguồn từ việc tái khám phá ra Chúa Giêsu Kitô, từ sự thật, ơn thánh và gương mặt là Người và là Thiên Chúa của Người, trên đó rạng ngời mầu nhiệm siêu việt của Thiện Chúa.
Đức Thánh Cha nói: trong ba tuần các nghị phụ đã đương dầu với việc tái truyền giảng Tin Mừng. Toàn thể Giáo Hội đã hiện diện và bị lôi cuốn vào dấn thân này. Thượng Hội Đồng Giám Mục là thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất giáo hội. Nó càng ý nghĩa hơn nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mở Công Đồng Chung Vaticăng II và bắt đầu Năm Đức Tin. Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI đã giúp chúng ta hiểu rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng là năng động phát triển trong Giáo Hội, đặc biệt từ thập niên 1950 khi các nước cựu kitô trở thành ”vùng truyền giáo”... Chúng ta hãy phó thác cho Đức Trinh Nữ Maria các hoa trái công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa mới kết thúc. Xin Mẹ là Ngôi Sao của việc tái truyền giảng Tin Mừng dậy đỗ và giúp chúng ta can đảm và tươi vui đem Chúa Kitô tới với tất cả mọi người.
Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiển Khải
- www.vietvatican.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét