Đại hội các gia đình thế
giới 2012
Bài giáo lý số 2: Gia đình
thông truyền sự sống
Đại
hội các gia đình thế giới 2012 tại Milano “Gia
Đình: công việc và ngày lễ”:
GIÁO
LÝ CHUẨN BỊ
Bài 2: Gia đình thông truyền sự sốngA. Bài hát và lời chào mở đầu
B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa
27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. (St 1,27)
18 Đức Chúa là Thiên Chúa phán: “Con người ở một mình thì không
tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. 19Đức Chúa
là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con
người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì
tên nó sẽ là thế. 20 Con người đặt tên cho mọi súc vật,
mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá
tương xứng. 21 Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê
ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn
của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 Đức Chúa là
Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn
bà và dẫn đến với con người.
23 Con người nói:
“Phen này,
đây là xương bởi xương tôi,
thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”.
24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và
cả hai thành một xương một thịt. (St 2,18-24)
D. Giáo lý Kinh thánh
1. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Tại sao Thiên Chúa đã sáng tạo nên người nam và người nữ? Tại sao Ngài muốn cho
đôi nam nữ này, hơn là các thụ tạo khác, toả sáng hình ảnh Ngài? Người nam và
người nữ yêu thương nhau với trọn bản thân mình, là chiếc nôi Thiên Chúa đã
chọn để đặt tình yêu Ngài, để tất cả những người con, trai hay gái, được sinh
ra trên thế gian này có thể nhận biết, đón tiếp và sống tình yêu ấy, từ thế hệ
này sang thế hệ khác, mà dâng lời ngợi khen Đấng Tạo Hoá.
Những trang Kinh Thánh đầu tiên cho thấy điều tốt lành Thiên Chúa
đã dự định cho những thụ tạo của Ngài. Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và
người nữ phẩm giá như nhau nhưng lại dị biệt: người này phái nam,
người kia phái nữ. Sự giống nhau kết hợp sự khác biệt phái tính cho phép cả hai
bước vào trong cuộc đối thoại sáng tạo, kí kết một giao ước đời sống. Trong
Kinh Thánh, giao ước với Đức Chúa đem lại sự sống cho dân, liên quan đến thế
giới và lịch sử của toàn thể nhân loại. Điều mà Kinh Thánh dạy về nhân loại và
về Thiên Chúa bắt nguồn từ nơi biến cố Xuất Hành, qua đó dân Do thái cảm nghiệm
Đức Chúa gần gũi độ lượng và trở thành dân riêng Ngài, khi chấp nhận giao ước
mà chỉ nhờ đó dân mới được sống.
Lịch sử giao ước của Đức Chúa với dân riêng Ngài soi sáng cho câu
chuyện sáng tạo người nam và người nữ. Họ được tạo dựng nhờ một giao
ước không chỉ liên hệ đến chính họ mà còn liên can đến Đấng Tạo Hoá: “Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, Thiên Chúa
sáng tạo con người có nam có nữ”.
Gia đình sinh ra từ đôi vợ chồng đã được dự định, với sự khác biệt
giới tính, theo hình ảnh Thiên Chúa của giao ước. Nơi gia đình ngôn
ngữ thân xác rất được đề cao vì nói lên điều gì đó về chính Thiên Chúa. Giao
ước mà một người nam và một người nữ, trong sự khác biệt và bổ túc cho nhau,
được mời gọi sống, là hình ảnh và giống như giao ước Thiên Chúa đã ký kết với
dân riêng Ngài. Thân xác của người nữ được đặt định để khao khát và đón nhận
thân xác người nam và ngược lại, nhưng trước hết điều đó cũng đúng cả về “trí
tuệ” và “tâm hồn”.
Cuộc gặp gỡ với một người khác phái luôn khơi dậy sự tò mò, cảm
kích, ước muốn được chú ý, được cho đi điều tốt nhất của mình, được tỏ bày giá
trị bản thân, được quan tâm, được che chở…; đó là một cuộc gặp gỡ năng động, chứa
đầy năng lượng tích cực, bởi vì trong tương quan với người khác
chúng ta khám phá và tăng triển chính mình. Căn tính của phái nam và phái nữ
nổi bật cách đặc biệt khi giữa họ phát sinh tình yêu kỳ diệu do gặp gỡ nhau và
ước muốn gắn bó bền lâu.
Trong bài tường thuật sách Sáng thế chương 2,
Ađam khám phá ra mình là phái nam vào chính lúc ông nhận ra người nữ: cuộc gặp
gỡ với người phụ nữ làm cho ông nhận thức và xác định mình là người đàn ông.
Việc người nam và người nữ nhận ra nhau làm tan biến sự xấu xa là nỗi đơn độc
và vén mở cho thấy điều tốt lành của giao ước vợ chồng. Trái với chủ trương của
nhóm ý thức hệ về giới [1], sự khác biệt giữa hai phái tính rất là quan
trọng. Đây là điều kiện tiên quyết cho mỗi người có thể phát triển nhân
cách trong việc quan hệ và tương tác với người khác. Khi hai người phối ngẫu tự
trao hiến hoàn toàn cho nhau, thì đồng thời họ cũng trao ban chính mình cho con
cái sẽ được sinh ra. Tính năng động của việc trao hiến này bị giảm thiểu mỗi
khi người ta sử dụng tính dục cách ích kỷ, loại trừ mọi chiều kích mở ra cho sự
sống.
2. Con người ở một mình thì không tốt. Để lấp đầy sự đơn
độc của Ađam, Thiên Chúa tạo dựng cho ông “một trợ tá tương xứng với
ông”. Trong Kinh Thánh hạn từ “trợ tá” (người trợ giúp/đấng phù trợ) hầu
hết được dùng với chủ thể là Thiên Chúa, đến nỗi trở thành một tên gọi của
Thiên Chúa («Đức Chúa ở cùng tôi, Ngài là đấng phù trợ tôi” Tv 118,7). Hơn nữa
từ “trợ tá” không được hiểu như một sự can thiệp chung chung mà như là một sự
cứu viện đến bên kẻ đang gặp nguy tử. Khi dựng nên người nữ như là trợ trá
tương xứng cho người nam, Thiên Chúa kéo ông ra khỏi sự đơn độc xấu xa khiến
phải chết, và đưa ông vào giao ước ban sự sống: giao ước vợ chồng, theo đó
người nam và người nữ trao ban sự sống cho nhau; giao ước phụ mẫu, theo đó
người cha và người mẹ thông truyền sự sống cho con cái.
Người nữ và người nam, người này là “trợ tá” cho người
kia, người này “đứng trước mặt” người kia, nâng đỡ, chia sẻ, thông
truyền, đồng thời loại trừ bất cứ hình thức coi khinh hoặc lấn lướt nào. Phẩm
giá ngang bằng nhau giữa người nam và người nữ không cho phép bất cứ một thứ
phân giai cấp nào và đồng thời không loại trừ sự khác biệt. Sự khác biệt cho
phép người nam và người nữ kết ước với nhau và giao ước này làm cho họ thêm bền
vững. Sách Huấn ca dạy như thế: “Cưới vợ là khởi đầu sự nghiệp, là có một trợ
lực tương xứng, và một cột trụ để tựa nương. Không có hàng rào, trang trại bị
cướp phá, vắng bóng đàn bà, đàn ông sẽ lang thang, rên rỉ” (Hc 36,24-25).
Người nam và người nữ yêu nhau bằng sự ham muốn và dịu dàng của
thân xác, cũng như bằng đối thoại sâu xa, họ trở thành những đồng minh nhận
ra người này là ân sủng cho người kia, giữ lời đã nói và trung thành với
lời giao kết, giúp đỡ nhau hiện thực hóa hình ảnh Thiên Chúa, xét như là người
nam và người nữ, mà họ được mời gọi ngay từ khi tạo thành thế giới. Suốt hành
trình đời sống họ nghiền ngẫm ngôn ngữ thân xác và lời nói, bởi vì cả hai đều
cần thiết như không khí và nước. Người nam và người nữ cần tránh cạm bẫy của sự
im lặng, xa cách và hiểu lầm. Không phải là hiếm vì những nhịp độ của công việc
mà họ trở nên mệt mỏi, bớt xén thời gian và nhiệt tình dành cho việc chăm sóc
quan hệ vợ chồng: chính lúc đó cần phải có thời gian nghỉ ngơi để cử
hành giao ước và ăn mừng cuộc sống.
Việc tạo dựng người nữ xảy ra đang khi người nam ngủ mê. Giấc ngủ
mê mà Thiên Chúa giáng xuống cho người nam diễn tả thái độ phó thác cho một mầu
nhiệm mà người nam không thể nào hiểu thấu. Nguồn gốc của người nữ được che phủ
trong mầu nhiệm Thiên Chúa, cũng giống như đối với đôi vợ chồng khởi nguồn của
tình yêu của họ, động lực thúc đẩy họ đến gặp gỡ và thu hút lẫn nhau, từ đó dẫn
đến đời sống hiệp thông, vẫn mãi là một mầu nhiệm. Tuy nhiên, có một điều dường
như thật chắc chắn: Thiên Chúa đã ghi khắc vào trong quan hệ vợ chồng
cái “logic” tình yêu của Ngài, nhờ đó mà điều thiện hảo của sự sống bản
thân mình hệ tại nơi sự tự hiến cho người kia.
Tình yêu vợ chồng, thực hiện qua việc lôi cuốn, đồng hành, đối
thoại, tình bạn, chăm sóc… bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, là Đấng ngay từ
nguyên thuỷ đã đặt định người nam và người nữ như là những thụ tạo biết yêu
thương nhau bằng chính tình yêu của Ngài, mặc dầu cạm bẫy của tội lỗi có thể
làm họ mệt mỏi và làm lu mờ mối quan hệ của họ. Thật đáng tiếc, tội lỗi
đã thay thế cái logic của tình yêu, của sự tự hiến bằng cái logic của quyền
lực, của sự thống trị và của tính tự quyết ích kỷ.
3. Cả hai thành một xương một thịt. Được tạo dựng từ
xương sườn người nam, người nữ là “thịt bởi thịt, xương bởi xương của
người nam”. Vì lẽ đó, người nữ dự phần vào xác thịt yếu đuối của
người nam, và vào cả cái cấu trúc nâng đỡ nó (xương cốt). Sách
Talmud có lời bình chú rằng “Thiên Chúa đã không dựng nên người nữ từ cái đầu
của người nam để nàng thống trị người nam; Ngài không tạo dựng nàng từ đôi chân
của người nam để nàng phải lụy phục chàng, nhưng Ngài đã dựng nên người nữ từ
xương sườn để nàng được ở gần trái tim của chàng”. Những lời này âm vang trong
những lời của “người được yêu” trong sách Diễm Ca: “Hãy đặt em như dấu ấn trên
trái tim chàng...” (Dc 8,6). Những lời này diễn tả một sự kết hợp
sâu xa và mãnh liệt mà tình yêu vợ chồng khát khao và hướng đến như đích điểm.
“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”: người
đàn ông thốt lên những lời đầu tiên này trước mặt người phụ nữ. Cho đến lúc này
chàng đã “làm việc” bằng cách đặt tên cho các loài vật, mà vẫn còn đơn độc, không
thể nói lời hiệp thông. Trái lại, khi thấy người phụ nữ trước mặt mình, người
đàn ông đã thốt ra những lời kinh ngạc, khi nhận ra nơi nàng một Thiên Chúa cao
cả và tình cảm tươi đẹp. Thiên Chúa giao phó công trình tạo dựng của Ngài cho
người đàn ông và người đàn bà hiệp thông với nhau, trong ngỡ ngàng, biết ơn và
liên đới. Bằng việc kết ước với nhau trong tình yêu, họ sẽ trở nên một
“xương thịt duy nhất” theo thời gian.
Kiểu nói “một xương thịt duy nhất” chắc chắn ám chỉ đến con cái,
nhưng trước hết nó gợi lên sự hiệp thông liên vị giữa người nam và người nữ
hoàn toàn gắn kết với nhau, đến độ tạo thành một thực tại mới. Kết hợp nên một
như thế người nam và người nữ có thể và phải sẵn sàng thông truyền sự sống, sẵn
sàng đón nhận, bằng cách sinh sản con cái nhưng cũng đồng thời rộng mở cho
những hình thức cho và nhận con nuôi. Quả thật, sự thân mật vợ chồng là nơi từ
ban đầu đã được Thiên Chúa muốn và đặt định, là nơi sự sống con người không
những được thông truyền và sinh ra, mà còn là nơi tập hợp tất cả những tình cảm
và các mối quan hệ nhân vị được đón nhận và học hỏi.
Nơi đời sống đôi bạn, vợ chồng sống sự kỳ diệu, tiếp đón, cống
hiến, an ủi khi gặp bất hạnh và cô đơn, giao ước và biết ơn vì những việc lạ
lùng Thiên Chúa làm. Và như thế họ trở thành mảnh đất tốt cho sự sống con người
được gieo vào, nảy mầm và vươn ra ánh sáng. Nơi của sự sống, nơi của
Thiên Chúa: đôi vợ chồng nhân loại, khi cùng đón nhận nhau họ hiện thực hoá
số phận phục vụ cho công trình tạo dựng và, đồng thời mỗi ngày một trở nên giống
Đấng Tạo Hoá hơn, trên hành trình tiến về sự thánh thiện.
E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]
Trong đời sống gia đình những tương quan liên vị có nền tảng và
được nuôi dưỡng bởi mầu nhiệm tình yêu. Hôn nhân Kitô giáo, vốn là mối kết giao
mà người nam và người nữ thề hứa yêu nhau trong Chúa suốt đời và với toàn thể
con người mình, là nguồn mạch nuôi dưỡng và làm sống động những tương quan giữa
mọi thành viên trong gia đình. Không phải tình cờ mà trong những đoạn trích sau
đây từ Tông Huấn Familiaris Consortio và Evangelium Vitae, để minh
hoạ huyền nhiệm đời sống gia đình, nhắc đi nhắc lại nhiều lần hạn từ “hiệp
thông” và “hồng ân”.
Tình yêu, nguồn mạch và linh hồn của đời sống gia đình
Sự hiệp thông vợ chồng là nền tảng trên đó xây dựng sự hiệp thông
rộng lớn hơn trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa những anh chị em
trong nhà với nhau, giữa những người bà con gần và những thành phần khác của
gia đình.
Một sự hiệp thông như vậy bắt nguồn từ những liên hệ tự nhiên ruột
thịt và được phát triển cho đến mức toàn thiện thực sự nhân bản, nhờ biết thực
hiện và phát triển đến mức trưởng thành những mối liên hệ thiêng liêng còn sâu
xa và phong phú hơn, đó là: tình yêu, là linh hồn của những tương quan liên vị
giữa những thành phần khác nhau trong gia đình, tình yêu này là sức mạnh bên
trong làm nên sự hiệp thông và làm sống động cộng đồng gia đình.
Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn được mời gọi trải nghiệm một sự
hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản.
Thật vậy, ân sủng của Đức Giêsu Kitô, người “Anh Cả của một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), theo bản tính và sức năng động nội tại của ơn ấy, là một
“ân sủng của tình huynh đệ” như thánh Tôma Aquinô vẫn gọi (S. Th. II· II·, 14, 2, ad 4). Thánh Thần được đổ tràn xuống trong cử hành
các bí tích chính là nguồn cội sống động và lương thực vô tận cho sự hiệp thông
siêu nhiên tập hợp và nối kết các tín hữu với Đức Kitô và với nhau trong sự
hiệp nhất của Hội Thánh Thiên Chúa. Gia đình Kitô hữu là một mặc khải, một sự
thực hiện đặc biệt mối hiệp thông này trong Hội Thánh. Vì thế, gia đình Kitô
hữu còn được gọi và phải được gọi là “Hội Thánh tại gia” (LG 11; x.AA, 11).
Tất cả mọi thành phần trong gia đình, mỗi người theo ơn riêng của
mình, đều có ân sủng và trách nhiệm để ngày này sang ngày khác xây dựng mối
hiệp thông giữa các ngôi vị, bằng cách biến gia đình thành một “trường học đào
tạo nhân tính được hoàn hảo và phong phú hơn” (GS, 52). Điều đó được thể
hiện qua việc yêu thương chăm sóc trẻ nhỏ, những người đau yếu, những người già
cả, qua những việc phục vụ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ
của cải, chia sẻ những niềm vui và nỗi khổ. [Familiaris Consortio, 21]
Gia đình được mời gọi can dự vào toàn bộ cuộc sống của các phần
tử, từ khi sinh ra cho tới khi qua đời. Gia đình thật là “cung thánh của sự
sống… là nơi mà sự sống, hồng ân của Thiên Chúa ban, có thể được đón nhận
cách xứng hợp và bảo hộ chống lại bao nhiêu đe dọa chực tấn công, và là nơi mà
sự sống có thể phát triển theo những đòi hỏi cho một tăng trưởng nhân bản đích
thực”[2]. Vì thế vai trò của gia đình có tính quyết định và không thể thay thế,
để xây dựng nền văn hoá sự sống.
Xét như là Giáo Hội tại gia, gia đình được mời gọi
loan báo, cử hành và phục vụ Tin mừng về sự sống. Đó là sứ mệnh
liên quan trước hết đến đôi bạn, những người được mời gọi để truyền ban sự
sống, dựa trên một ý thức luôn được canh tân về ý nghĩa của truyền sinh, coi đó
là sự kiện ưu tiên biểu lộ sự sống của con người là một hồng ân được
tiếp nhận, để rồi lại được trao ban. Khi tạo nên một sự sống mới, người cha
người mẹ như muốn nói rằng đứa con “nếu như là kết quả của việc họ tự hiến cho
nhau trong tình yêu, thì đến lượt nó, nó trở nên một hồng ân cho cả hai người:
một hồng ân phát sinh từ một hồng ân”[3]
Trên hết chính qua việc giáo dục con cái mà gia đình làm tròn sứ
mệnh loan báo Tin mừng về sự sống. Bằng lời nói và bằng gương sáng, trong những
tương quan và chọn lựa hằng ngày, và qua những cử chỉ và dấu hiệu cụ thể, cha
mẹ khai tâm cho con cái về sự tự do đích thực, vốn được thể hiện trong việc
thành thực hiến thân, và vun trồng cho con cái lòng kính trọng đối với người
khác, ý thức về công bình, lòng hiếu khách nồng hậu, thái độ đối thoại, tinh
thần phục vụ quảng đại, tình liên đới và các giá trị khác giúp ta sống cuộc đời
như một hồng ân. Công trình giáo dục của cha mẹ Kitô hữu phải làm sao để phục
vụ đức tin của con cái và giúp chúng đáp trả ơn gọi từ Thiên Chúa. Cũng trong
sứ mệnh giáo dục của cha mẹ là phải dạy và làm chứng cho con cái biết ý nghĩa
thực của đau khổ và sự chết. Dạy cho chúng biết về những điều ấy khi họ biết
lưu tâm đến mọi người đang đau khổ mà họ gặp thấy quanh mình, và trước hết, khi
họ biết gần gũi cách cụ thể qua sự đỡ nâng và chia sẻ với các thành viên đau ốm
và những người già yếu, ngay từ trong gia đình mình. [Evangelium Vitae, 92]
F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ chồng và theo
nhóm
Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:
1. Chúng ta sống như thế nào [để hoà hợp] giữa
ham muốn và ân cần trong quan hệ của chúng ta?
2. Những cản trở nào giăng kín hành trình giao
ước thâm sâu của chúng ta?
3. Tình yêu vợ chồng của chúng ta có rộng mở ra
để có con cái, mở ra đối với xã hội và Giáo hội không?
4. Chúng ta có thể có một quyết định nho nhỏ nào
để giúp chúng ta hiểu rõ hơn?
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
1. Làm thế nào để cổ vũ giá trị tình yêu vợ
chồng trong cộng đoàn chúng ta?
2. Làm thế nào để giúp các gia đình thông tin dễ
dàng và giúp đỡ lẫn nhau?
3. Làm thế nào để giúp những người đang gặp khó
khăn trong đời sống vợ chồng và gia đình?
G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội
H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.
I. Bài hát kết thúc.
[1] (Chú thích của người dịch) Ý thức hệ về giới hay lý thuyết phái tính là một khái niệm chính trong ý thức hệ nữ quyền hay chủ trương đồng tính luyến ái. Lý thuyết này phân tách giới (hay phái = gender/bình diện tâm lý xã hội) ra khỏi tính (tính dục = sexuality/bình diện sinh học). Chủ trương này cho rằng giới tính là tập hợp các động thái, hay các kiểu mẫu phản ứng do học tập mà có. Các động thái này có thể thay đổi tùy ý hay do ảnh hưởng xã hội và môi trường chung quanh.
[1] (Chú thích của người dịch) Ý thức hệ về giới hay lý thuyết phái tính là một khái niệm chính trong ý thức hệ nữ quyền hay chủ trương đồng tính luyến ái. Lý thuyết này phân tách giới (hay phái = gender/bình diện tâm lý xã hội) ra khỏi tính (tính dục = sexuality/bình diện sinh học). Chủ trương này cho rằng giới tính là tập hợp các động thái, hay các kiểu mẫu phản ứng do học tập mà có. Các động thái này có thể thay đổi tùy ý hay do ảnh hưởng xã hội và môi trường chung quanh.
Những người theo ý thức
hệ về giới cho rằng loài người không phải chỉ có hai giới (nam/nữ) mà có đến
những mười một giới (tính) khác nhau. Họ cho rằng quan điểm chủ trương giới
tính đồng nghĩa với giới tính sinh học (dục tính) chính là nguồn gốc đưa đến
cho tình trạng kỳ thị những người đồng tính luyến ái và thái độ cố chấp, không
khoan dung với những ai khác biệt.
[2] Đức Gioan Phaolô II,
Th.đ. Centesimus Annus – Năm
thứ một trăm (1.5.1991), số 39.
[3] Đức Gioan Phaolô II,
Diễn văn trước các tham dự viên Hội nghị Giám mục Âu châu về đề tài “Những thái
độ đương thời trước việc sinh ra đời và trước cái chết: một thách đố cho việc
rao giảng Tin Mừng” (17.10.1989), số 5. Con cái theo truyền thống Kinh Thánh
được trình bày cách rõ ràng như là hồng ân của Thiên Chúa (x. Tv 127,3) và như là dấu chỉ
phúc lành của Ngài xuống trên những ai đi trong đường lối của Ngài (x. Tv128,3-4)
(Dịch từ bản tiếng Ý)
(Dịch từ bản tiếng Ý)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét